Người Việt, 6/6/2020

ANAHEIM, California (NV) – Đầu năm 1965 là cột mốc khó quên trong đời khi chàng trai trẻ Hứa Thiện Hùng lần đầu tiên tình nguyện vào Quân Chủng Không Quân, Khóa 65D, được qua Mỹ học giai đoạn đầu nhưng sau đó vì lý do sức khỏe, phải trở về Việt Nam.

Nhưng nhiệt huyết vẫn luôn sôi sục trong lòng khi chứng kiến bao cảnh đau thương của chiến tranh, sau khi về nước ông được đưa qua Khóa 26 Bộ Binh Thủ Đức, mãn khóa ông tình nguyện về Lực Lượng Đặc Biệt.

Được nhập ngũ trong thời chinh chiến, phục vụ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ là một biểu tượng của tình yêu tổ quốc, đó cũng là danh dự và trách nhiệm của công dân. Và người trai thời loạn Hứa Thiện Hùng, đã vinh dự đứng dưới lá cờ vàng, qua hai sắc lính với hai quân chủng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Lần đầu gia nhập Quân Chủng Không Quân Quân Lực VNCH

Tiếp phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Anaheim, miền Nam California, ông Hứa Thiện Hùng kể, để bước vào Quân Chủng Không Quân, đầu tiên sau khi thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang khoảng 11 tháng, ông Hùng được qua Mỹ học tiếng Anh tại trường Lackland Air Force Base, Texas. Rất tiếc trước khi tiếp tục qua trường học bay, lúc đó sức khỏe không cho phép tiếp tục khóa huấn luyện phi công, ông Hùng đành phải bỏ dở nửa chừng chương trình học.

Trở về nước, ông Hùng gia nhập Khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau khi ra truờng, ông tình nguyện vào Lực Lượng Đặc Biệt, đặt hậu cứ ở Nha Trang, thuộc Trung Tâm Hành Quân Delta.

Lúc đó đang trong trận Mậu Thân 1968, ông Hùng đang hành quân ở vùng Cây Quéo, Cây Thị (tỉnh Gia Định), tảo thanh Việt Cộng tấn công vào nội thành Sài Gòn-Gia Định. Lúc đó lực lượng Delta đang truy lùng tìm Việt Cộng lẩn trốn và ông Hùng là phụ tá toán trưởng Delta. Sau trận đó ông được rút về Nha Trang, tiếp tục là trưởng toán nhảy vào mật khu Đồng Bò Nha Trang. Rồi ông tiếp tục nhảy vào rừng, mỗi tháng nhảy toán một lần, vào vùng Mỏ Than Nông Sơn, Khu Kỹ Nghệ An Hòa, Đồng Xoài, Lộc Ninh…

“Tôi ở đó hơn một năm, nhảy trong rừng khoảng 17 lần, mỗi lần vô ra khoảng bảy ngày, dắt theo sáu toán viên. Lúc mới về, có cố vấn Mỹ đi cùng sau đó thì không cần thiết, mình tự đi. Sau khoảng 13 tháng ở đơn vị nhảy toán Delta, bên Không Quân có yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu cho tôi về khám lại sức khỏe, may sao lại qua hết những đợt kiểm tra này,” ông Hùng cho biết.

Trở qua Mỹ, tiếp tục học khóa phi công

“Tôi lại được trở qua Mỹ lần nữa, đưa về Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, để được huấn luyện bay T-28 khoảng 12 tháng. Đây là loại máy bay một động cơ cánh quạt để thực tập các bài học lái căn bản. Người học lái ngồi ghế trước, tiếp cận trực tiếp với bảng đồng hồ và tự điều khiển cần lái, còn người thầy huấn luyện ngồi ở ghế sau,” ông Hùng kể.

Ông Hùng cho hay, để học lái trên chiếc T-28, một ngày có khoảng 2 đến 3 giờ bay trong hai buổi, sáng đi bay chiều học dưới đất, khoảng 400 đến 500 giờ là xong chương trình. Khó khăn và nguy hiểm nhất trong chương trình học là kỹ thuật “Spin,” bay chúc đầu xuống, lấy lại thăng bằng bình thường để xoay cánh bay lên. Ngoài ra những kỹ thuật cất cánh, đáp, nhận diện địa hình dưới đất cũng được học và thực hành rất kỹ.

Nhớ về kỷ niệm đẹp nhất trong đời người phi công, ông Hùng vui vẻ kể: “Khi đã thành thục, người thầy huấn luyện sẽ không đi theo nữa, học viên tự bay một mình, tự cất cánh và đáp xuống với sự điều khiển, nhắc nhở của ông thầy dưới đất. Chuyến bay ‘solo’ thành công, khi đáp xuống học viên sẽ được huấn luyện viên nhấc lên bỏ vô thùng nước ướt hết cả người, leo ra đứng chụp hình chung với ông thầy. Cả học viên lẫn người thầy huấn luyện đều vui mừng vì cả hai đều hoàn thành tốt đẹp khóa học bay!”

 

Ông Hứa Thiện Hùng (phải) với bộ đồ bay ướt sũng, trong thủ tục ăn mừng bay “solo” thành công. Bên cạnh là ông John Hackerman, thầy huấn luyện bay tại Trường Phi Hành Keesler AFB, Biloxi, Mississippi, năm 1971. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

“Ngoài ra, sau khi bay ‘solo’ thành công, sẽ được bay bằng phi cụ, tức là học viên ngồi trong buồng lái bao bọc chung quanh một bao tối đen, chỉ tiếp xúc trực tiếp với những đồng hồ chỉ báo tốc độ, cao độ, hướng bay, và người thầy ngồi phía sau điều khiển nhắc nhở,” ông Hùng kể thêm.

Mãn khóa học bay T-28, ông Hùng được chuyển qua học bay C-123 là loại máy bay vận tải hai cánh quạt tại Trường Phi Hành Lockbourne AFB ở Columbus, tiểu bang Ohio, khoảng ba tháng là xong khóa học.

Ông Hùng cho biết thêm trong chiến tranh Việt Nam, loại máy bay C-123K có trang bị thêm hai động cơ phản lực phụ để lên xuống ở những phi đạo ngắn, rất đắc dụng để vận chuyển lính đi hành quân, huấn luyện nhảy dù, thả dù tiếp liệu súng đạn, lương thực, thuốc men y tế, nhu yếu phẩm cho từng đơn vị. Trước năm 1975, Mỹ cho thu hồi loại máy bay C123 để đổi lại chiếc C130, mạnh hơn.

Về nước, lái máy bay vận tải C123 khắp chiến trường

Về Việt Nam, ông còn một giai đoạn chót nữa trong chương trình huấn luyện tại phi trường Phan Rang, là phi công phải học lái máy bay trên những phi đạo ngắn, được lót bằng những tấm vỉ sắt như phi trường Kon Tum, hoặc đáp xuống những con lộ ngắn tại những quận lỵ nhỏ, hoặc tiền đồn địa phương hẻo lánh, không có phi trường.

“Như ở tiền đồn Tống Lê Chân hoặc những nơi đang bị vây, máy bay đến thả hàng tiếp liệu súng đạn, lương thực, nhu yếu phẩm, thường là súng đạn cho chiến trường đang rất cần, thả cho thật lẹ rồi bay ngay. Cũng có mấy chiếc C123 bị hỏa tiễn SA7 của Việt Cộng bắn rơi trên chiến trường,” ông Hùng kể.

Từ đó phi công Đại Úy Hứa Thiện Hùng phục vụ tại Phi Đoàn 423-425, thuộc Không Đoàn Vận Tải 53, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất, bay khắp nơi để phục vụ chiến trường lúc bấy giờ đang hồi khốc liệt. Tiếp tục bay đến năm 1975, sau đó đời tù “cải tạo” bắt đầu.

“Đầu tiên tôi bị đưa vào trại Trảng Lớn, Tây Ninh, nơi đó là đồn đóng quân của Địa Phương Quân, gần phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Sau đó tôi bị đưa qua trại Cà Tum, sát biên giới Cam Bốt, trại này thuộc Lực Lượng Đặc Biệt, thuộc Lôi Hổ biên phòng ngày xưa,” ông nhớ lại.

“Cuộc đời tù cũng như bao người khác, nhưng được cái may mắn là tôi không ở trong những trại tù hắc ám thành ra có phần nhẹ hơn. Ở trại Cà Tum đến cuối năm 1980 thì tôi được đưa về Thành Ông Năm, Hóc Môn. Ra tù, tôi phải đi đào thủy lợi như mọi người dọc theo con kênh ở Đức Hòa, Đức Huệ, Hậu Nghĩa,” ông Hùng kể.

 

Thiếu Úy Hứa Thiện Hùng, thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, năm 1969. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Chuyến vượt thoát và những nỗi kinh hoàng trên biển

Cuối năm 1980, ông Hùng được người dắt mối vượt biển với giá 2 cây vàng. Chuyến đi xuất phát từ Rạch Giá, Kiên Giang, sau một ngày đêm lênh đênh trên hải phận quốc tế, lần đầu gặp ngay hải tặc Thái Lan.

Chuyến ghe vượt biển dài khoảng gần 20 thước, chở 120 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em, còn lại chỉ có 19 tay thanh niên trên 18 tuổi, trong đó có tôi, ông Hùng cho hay.

“Bọn hải tặc thả dây kéo ghe mình cập vô sát ghe nó, kêu hết tất cả đàn bà con nít qua hết trên ghe nó, nấu cơm cho ăn tử tế, xong hãm hiếp phụ nữ, khi bọn cướp trả người về ghe của mình, tất cả phụ nữ đều thất thần hoảng loạn!” ông Hùng bần thần nhớ lại.

“Sau đó ghe tiếp tục đi, vợ con của chủ ghe hoảng hốt, người chủ ghe cũng mất tinh thần theo. Tôi lúc đó nằm dưới lườn ghe, được chủ ghe yêu cầu tôi tiếp tục điều khiển chiếc ghe để đi tiếp. Chủ ghe cho biết nếu bị cướp biển lần nữa, thì tôi tùy theo hoàn cảnh mà giải quyết, nếu cần thì liều chết. Tôi kêu các anh em đi trên ghe, cho biết nay tôi theo sự ủy thác của chủ ghe, nếu gặp cướp biển lần nữa, các anh em phải nghe theo sự chỉ huy của tôi, các anh em trên ghe đều đồng ý,” ông Hùng kể tiếp.

Ông Hùng cho hay, mấy anh em đi vượt biển chuyến này hầu hết đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ít nhiều đều có võ nghệ để phòng thân. Hơn nữa vừa xảy ra việc cướp bóc hãm hiếp vừa rồi, nên mọi người đều uất ức!

Bị cướp lần thứ hai, phải giết người trên đất Thái

Ông Hùng kể, ngay ngày hôm sau, lúc đó ông định hướng là gần vô đất Thái, lại gặp cướp lần thứ hai. Lần cướp này xảy ra bài bản hơn lần thứ nhất, khi bọn hải tặc cho tất cả mọi người trên ghe vượt biên qua hết trên tàu lớn của chúng, để bọn chúng lên ghe nhỏ của mình, lục soát lấy những gì có thể lấy. Sau đó bọn chúng đập phá nát ghe của mình, mục đích coi còn giấu vàng bạc chỗ nào không.

“Sau khi cướp phá xong, bọn hải tặc bắt đầu đuổi người vượt biển trở xuống ghe nhỏ của mình. Tôi nhìn xuống thấy hỡi ơi, chiếc ghe nhỏ mình bị phá tan tành, coi như không thể đi được nữa! Tôi nói với nhóm thanh niên mình, phải chuẩn bị tư thế sẵn sàng, khi nghe tôi ra lệnh, tất cả đều phải lao vào tử chiến,” ông Hùng nhớ chuyện xưa.

“Vừa bị cướp bóc hãm hiếp xong, nỗi uất ức mọi người còn dâng tràn, nên sau khi tôi ra lệnh ‘Xung phong,’ cả đám thanh niên say máu ào vô đánh liền. Bọn cướp biển tên nào cũng có cầm dao trên tay, còn bọn tôi thì tay không, nhưng ai nấy cũng đều là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ít nhiều gì cũng ‘có nghề’ nên nhất tề xông vào đánh tới tấp!” ông kể.

Ông Hứa Thiện Hùng (phải) thuộc Lực Lượng Đặc Biệt Nhảy Toán Delta, trong chuyến về thăm nhà tại Phan Thiết năm 1969, trước khi nhảy toán. (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Ông Hùng buồn rầu kể lại chuyện đã xảy ra hơn 40 năm: “Bọn cướp biển bất ngờ bị tấn công dữ dội, chúng trở tay không kịp. Riêng tôi bị tên đầu đảng cầm mã tấu phóng tới chém liền. Không may cho nó, tôi chụp chiếc cần xé đan bằng tre rất chắc dùng để đựng cá, quăng tới đỡ liền. Khi mã tấu bị chém hụt, rớt xuống trước mặt, tôi chụp ngay mã tấu chém ngược một nhát ngay cổ tên đầu đảng, hắn ngã xuống giãy đành đạch, máu phun có vòi!”

“Việc hỗn chiến diễn ra quá nhanh, kết quả bọn hải tặc chết bốn tên tại chỗ, chúng tôi kéo xác quăng xuống biển, ba tên còn lại hốt hoảng nhảy xuống biển. Tôi cũng không ngờ anh em thanh niên ra tay sấm sét như vậy! Bên phe ta có anh Danh bị đâm lòi ruột nặng nhất, và một anh khác bị chém xệ bả vai. Nhờ có anh Bác Sĩ Chi Lăng đi trong nhóm vượt biên, lấy dụng cụ y tế trên ghe băng bó tạm,” ông nói.

“Kế tiếp tôi chỉ huy anh em lấy cây gỗ trên ghe, chặt thành từng đoạn làm vũ khí chống trả nếu có gặp cướp biển lần nữa. Khi đó có có mấy chiếc ghe Thái chạy vòng quanh nhưng không dám tới gần. Sau đó tôi kêu anh em nổ máy ghe chạy tiếp vô đất liền, nhưng không biết sao máy không nổ, chiếc ghe nằm yên không nhúc nhích!” ông Hùng kể tiếp.

Thế là mọi người phải nằm chịu trận tại chỗ cho tới hôm sau, khi thấy một chiếc tàu Hải Quân Thái Lan tới gần, bà con lấy áo phất lên làm dấu hiệu cầu cứu, cùng lúc mấy thanh niên quăng hết dao trên ghe xuống biển để tránh phiền phức.

“Thấy chúng tôi, tàu Hải Quân Thái thả xuống chiếc ca nô nhỏ chạy tới. Thế nhưng, chúng dừng lại quan sát hồi lâu rồi bỗng bắn hàng loạt đạn bay tung trên mặt nước tới tấp để thị uy xong mới xáp vô lục soát. Sau khi thấy không có gì nguy hiểm, chúng kéo ghe vô đất liền,” ông miêu tả. (Văn Lan) [qd]

https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/hua-thien-hung-chien-si-quan-luc-vnch-hai-sac-linh-mot-mau-co/


Phi công Hứa Thiện Hùng kể chuyện bị vu cáo vượt biển cướp ghe, giết người

Người Việt, 13/6/2020

Văn Lan/Người Việt

ANAHEIM, California (NV) – Sau ngày mất nước năm 1975, phi công Đại Úy Hứa Thiện Hùng phải giã từ Phi Đoàn 423-425, thuộc Không Đoàn Vận Tải 53, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất, để sống đời tù “cải tạo.” Ra tù, không sống nổi dưới chế độ Cộng Sản, cuối năm 1980, ông tìm đường vượt biển.

Kể tiếp với phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Anaheim, miền Nam California, ông Hứa Thiện Hùng cho biết chuyến đi từ Rạch Giá, Kiên Giang, sau một ngày đêm lênh đênh trên hải phận quốc tế, thì gặp hải tặc Thái Lan.

Chiếc ghe chở 120 người phần lớn là phụ nữ và trẻ em, còn lại chỉ có 19 thanh niên trên 18 tuổi, bị hải tặc kéo ghe. Điều ông không tưởng tượng được là hầu hết phụ nữ trên ghe đều bị hải tặc hãm hiếp. Người chủ ghe mất tinh thần nhưng nói “nếu bị cướp biển lần nữa, thì tùy theo hoàn cảnh mà giải quyết, nếu cần thì liều chết.”

Khi gần đến đất Thái, ghe lại gặp cướp lần thứ hai và bị đập phá nát, mục đích để hải tặc coi còn giấu vàng bạc chỗ nào không. Uất ức, tất cả thanh niên trên ghe đánh trả hải tặc. Việc hỗn chiến diễn ra quá nhanh, kết quả bọn hải tặc chết bốn tên tại chỗ, ba tên còn lại hốt hoảng nhảy xuống biển.

Đời tù trên đất Thái, bắt đầu cơn khổ nạn

Sau đó ghe vượt biên được tàu Hải Quân Thái Lan kéo vô Pattani, giáp với Mã Lai. Ông Hùng kể, ngay lập tức ông có hai yêu cầu: “Thứ nhất cho thuyền nhân được gặp Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Thứ hai là cho phép anh Trịnh Công Danh đang bị lòi ruột do tử chiến với hải tặc được cấp cứu ngay. Còn mấy anh khác bị thương cũng được chăm sóc y tế đầy đủ.”

Hai hôm sau có phái đoàn Cao Ủy tới, ông Hứa Thiện Hùng xin trình bày câu chuyện người vượt biên bị hải tặc Thái cướp bóc hãm hiếp trên biển. Lúc đó báo chí đến chụp hình quay phim, phỏng vấn làm rùm beng lên, vì lần đầu tiên trong lịch sử thuyền nhân có một vụ giết người kinh khủng như vậy! Sau đó cả chiếc ghe và 120 người bị đưa về Ty Cảnh Sát Pak Phanang, nơi Hải Quân Thái bàn giao lại chiếc ghe này cho cảnh sát Thái.

“Khoảng vài ngày sau, cả nhóm vượt biên được đưa về thành phố Pak Phanang, là nơi có chủ ghe của bọn cướp Thái Lan bị chúng tôi đánh trả, khiến bốn tên bị chết,” ông nói.

Mười chín người lính VNCH vượt biên, giết hải tặc trên biển, sau khi được tòa án Pak Phanang tha bổng. Hình chụp trước Ty Cảnh Sát Pak Phanang, Thái Lan, năm 1981. Ông Hứa Thiện Hùng (đầu tiên, phải). (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Ông Hùng cho hay: “Có luật sư của Cao Ủy đến hỏi han để bảo vệ chúng tôi. Rồi Ty Cảnh Sát bắt đầu lấy lời khai, lọc ra những người trên 18 tuổi, bắt đứng sắp hàng để ba tên cướp người Thái đã nhảy xuống biển đến nhận mặt. Ba tên này đã thoát thân khi bị chúng tôi đánh chống lại, sau đó lên bờ vu cáo ngược lại là người vượt biển cướp ghe của chúng.”

“Ba tên này đồng loạt chỉ tôi là người chỉ huy, đã chặt đầu tên người Thái chết trên ghe của bọn chúng. Cảnh sát kêu đúng 19 thanh niên trên 18 tuổi trong nhóm người vượt biên, đem nhốt trong nhà tù Ty Cảnh Sát ngay lập tức. Còn vợ con của người bị nhốt và những người khác đi trên ghe thì đem qua trại Songkhla. Cao Ủy có đến tiếp xúc với chúng tôi hằng ngày để hỏi han, lấy thông tin. Ông luật sư trẻ của Cao Ủy cho biết đây là lần đầu tiên có việc người vượt biên tị nạn giết người Thái,” ông nhớ lại.

“Luật sư của Cao Ủy cũng cho chúng tôi biết, người chủ chiếc ghe của bọn cướp đang có đơn kiện chúng tôi đã cướp ghe của họ, hiện cảnh sát đang điều tra,” ông kể tiếp.

Ông cho biết: “Cứ hằng tuần, luật sư của Cao Ủy đều đến thăm hỏi tù nhân, và từ trại Songkhla có Linh Mục Joe xin cho một toán y tá đến chăm sóc sức khỏe chúng tôi. Lúc đầu chúng tôi cũng sợ người tù Thái nhốt chung, nhưng sau đó họ cũng thân thiện với mình. Người tù được chia việc làm đan mây, người thì làm việc thợ mộc.”

Trong nhà tù, cứ khoảng ba tuần một lần, hai người tù bị xích chân chung một còng, giải đến tòa án Pak Phanang để xét xử. Ở tòa có luật sư của Cao Ủy biện hộ cho người tù, và phía chủ ghe cũng có luật sư biện hộ cho họ.

“Tòa hỏi cả hai bên luật sư, có cả ba tên cướp ra tòa làm chứng. Tất cả sự việc tôi đều khai trước tòa lần nào cũng y như vậy. Khoảnh bốn lần ra tòa thì tôi ngạc nhiên khi thấy ba tên cướp làm nhân chứng không thấy đến dự phiên tòa nữa. Ông luật sư của chúng tôi cho biết đó là dấu hiệu tốt lành cho chúng tôi, vì ba tên này sợ không dám ra làm chứng nữa,” ông Hùng kể.

Giáo Sư Bùi Tuyết Hồng (thứ tư, trái) tại phi trường John Wayne, California, năm 1992. Bà là người đã cứu mạng 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa suýt bị kết án từ hình và chung thân trên đất Thái. Trong hình này có ông Đoàn Văn Nguyên (thứ ba, trái), một trong 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa. (Hình: Tư liệu Đặc San Petrus Ký năm 1993, Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Những lá thư với bà Bùi Tuyết Hồng

Trong những lần ra hầu tòa, ông Hùng đi quanh khu lán trại đang ở trong nhà tù Pak Phanang, thấy có mấy tờ báo Bangkok Post viết bằng tiếng Anh, ông nhặt lên coi thì thấy Thái Lan đang ca tụng bà Bùi Tuyết Hồng, người được Hoàng Gia Thái ngưỡng mộ hết mình. Bà đang cùng chồng là ông Frans van Dongen, Đại Sứ Hòa Lan phụ trách khu vực Đông Nam Á đã hết nhiệm kỳ tại Thái Lan, chuẩn bị về nước. Bà Bùi Tuyết Hồng vốn là giáo sư các trường Petrus Ký, Gia Long, Võ Trường Toản trước năm 1975

Cũng có những bài báo tường thuật những phiên tòa đang xét xử 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa đã giết bốn hải tặc người Thái trong chuyến vượt biên. Với lập luận của tờ Bangkok Post, họ cho rằng tội giết người Thái trên ghe của người Thái, ngay trên đất Thái, theo luật của Thái chắc chắn là sẽ bị xử tử hình.

“Sau khi đọc bài báo viết như vậy, trong lòng tôi hoang mang lo sợ vô cùng, nghĩ rằng mình được Cao Ủy bảo vệ trước tòa án cũng rất tốt nhưng chưa đủ, mình phải có sự ủng hộ qua những tiếng nói từ bên ngoài nữa mới mạnh. Tôi bèn nhờ người y tá gởi giùm lá thư của tôi cho những người vợ của 19 người tù, đang ở trong trại Songkhla, xin cho tôi địa chỉ của bà Bùi Tuyết Hồng. Hai tuần sau khi tôi có được địa chỉ của bà, bèn viết thơ cầu cứu, nhờ bà can thiệp,” ông Hùng kể.

Ông nhớ lại: “Bà Tuyết Hồng viết thư trả lời, cho tôi biết bà sẽ gặp hoàng hậu Thái Lan trong chuyến đi Paris sắp tới, và cũng hứa với tôi là bà sẽ can thiệp. Bà đã kể cho hoàng hậu Thái Lan nghe câu chuyện của 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa đi trên chuyến ghe bị hải tặc cướp và hãm hiếp người vượt biên, dẫn đến việc 19 người này đã giết chết bốn tên hải tặc, hiện bị giam trong nhà tù của cảnh sát Thái.”

“Vài tháng sau, bà Tuyết Hồng có gởi cho tôi lá thư cho biết là hoàng hậu hứa là sẽ xem xét vụ việc, nếu đúng sự thật thì sẽ can thiệp để giải quyết. Trong thư bà Tuyết Hồng có căn dặn tôi tuyệt đối không được nói cho ai biết bất cứ điều gì về sự liên lạc giữa bà và tôi, nên tất cả thư từ bà đã gởi đều bị tôi xé bỏ, để tránh bất kỳ sự rắc rối nào có thể xảy ra,” ông nói.

Một đoạn trong bức thư của bà Bùi Tuyết Hồng gởi cho cô Loan là chị của ông Đoàn Văn Nguyên, một trong 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa trên chuyến ghe vượt biển, đã giết hải tặc Thái Lan. Trong thư, bà Tuyết Hồng nói rõ là bà chắc chắn 19 người tù sẽ được tha. (Hình: Tư liệu Đặc San Petrus Ký 93, Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Ông Hùng ray rứt trong lòng khi kể chuyện: “Ở tù Thái Lan đúng một năm một tháng, cứ ba tuần một lần ra hầu tòa, cùng với những bài viết trên tờ báo Bangkok Post, làm tôi vô cùng hoang mang lo sợ, chắc mình sẽ chấm dứt cuộc đời trên đất Thái. Sao oan khiên quá vậy, những cô gái Việt bị hãm hiếp, những người bị hải tặc cướp bóc, giết chết quăng xác xuống biển phi tang, ai sẽ giải oan cho họ đây?”

“Bao nhiêu uẩn khúc dằn xé trong lòng, tôi luôn nghĩ rằng thời gian sống của mình đang đi gần đến cái chết, cùng với bản án oan dành cho 18 bạn tù đã cùng chiến đấu, giết người trên biển để tìm lẽ sống còn. Chẳng lẽ mình rời bỏ quê hương xứ sở, đi tìm tự do lại bị rơi vào chỗ chết oan như vậy sao? Trời cao có mắt hay không, tinh thần tôi như sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn cầu mong có ơn trên cứu mạng,” ông nói.

Trong buổi họp mặt Liên Khóa 65 SVSQ/KQ/VNCH năm 2015. Ông Hứa Thiện Hùng (thứ ba từ phải, hàng thứ nhì). (Hình: Văn Lan/Người Việt chụp lại)

Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn trong nhà tù Thái

Cho đến một ngày đầu năm 1981, trong phiên tòa xử, ông quan tòa cầm búa gõ xuống bàn, hủy bản án, tuyên bố 19 người tù đã tham gia giết người trên chuyến vượt biên là vô tội, được xử trắng án.

Khi nghe tòa truyên án, ông Hùng khóc hết nước mắt, trong lòng ông nghĩ chỉ có ơn trên cứu mạng, và chỉ có bà Tuyết Hồng mới có thể cứu được 19 mạng người trong hoàn cảnh này! Bà là vị Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân, đã ra tay cứu giúp không biết bao thuyền nhân Việt Nam trong nhà tù Thái Lan, và trên những chuyến ghe vượt biển.

“Cả phiên tòa đều ngỡ ngàng, không hiểu được vì sao chúng tôi được trắng án, cả ông luật sư của Cao Ủy và luật sư của chủ ghe đều nhìn nhau ngơ ngác, chỉ có riêng tôi thì ngầm hiểu rất rõ trong lòng,” ông Hùng xúc động nói.

Sau phiên tòa, 19 tù nhân gốc lính Việt Nam Cộng Hòa được đưa về Ty Cảnh Sát Pak Phanang, cho ra khỏi nhà tù, ở tạm ngoài lều dành cho người tị nạn mới đến sau.

“Lúc đó tôi có thể nói tiếng Thái với tên thượng sĩ cảnh sát coi trại tị nạn dành cho người mới tới, chúng tôi rất vui vẻ, và đã cùng nhau cụng ly chúc mừng thoát nạn. Có điều là sau chuyện giết hải tặc của chúng tôi, những chuyến ghe đến sau, chỉ có toàn đàn bà và con nít, vô tới đảo đều không có đàn ông, vì bị hải tặc giết ngay trên ghe, quăng xác xuống biển phi tang. Chính những người phụ nữ trên những chuyến ghe đến sau đều khóc kể như thế,” giọng ông Hùng chùng hẳn khi kể chuyện khổ nạn vượt biển năm xưa.

Từ trại Songkhla, sau khi qua thanh lọc, ông Hứa Thiện Hùng được qua trại Phanat Nikhom để chờ qua Mỹ.

Từ khi được tòa Thái xử trắng án và được sang Mỹ đến nay, ông Hùng tâm sự: “Tôi xin hết lòng nhớ ơn bà Bùi Tuyết Hồng, người duy nhất đã cứu mạng 19 người lính Việt Nam Cộng Hòa trong cơn thập tử nhất sinh tại tòa án Thái Lan. Suốt đời tôi xin mang ơn bà, đã giúp tòa án Thái thấu đáo được thảm trạng của thuyền nhân Việt Nam đã liều chết bỏ xứ ra đi vì hai chữ Tự Do. Cho tới bây giờ và suốt đời, tôi xin mang ơn bà và xin thắp nén hương lòng, kính nhớ đến vị ân nhân đã cứu giúp không biết bao nhiêu thuyền nhân Việt Nam trong các trại tị nạn năm xưa, để họ có được một tương lai xán lạn nơi hải ngoại.” (Văn Lan) [qd]


Ông Hứa Thiện Hùng quê gốc Phan Thiết

Học sinh các trường Bạch Vân (Phan Thiết), và trường Trung Học Nguyễn Văn Khuê (Sài Gòn).

Tình nguyện vào Không Quân Khóa 65D. Năm 1966 qua Mỹ học lái máy bay.

Vì lý do sức khỏe phải trở về nước, vào Khóa 26 Trường Bộ Binh Thủ Đức.

Ra trường Bộ Binh Thủ Đức, tình nguyện vào Lực Lượng Đặc Biệt, Trung Tâm Hành Quân – trưởng toán nhảy toán Delta.

Năm 1970 được gọi lại học Không Quân tại Mỹ.

Năm 1971 về nước lái máy bay vận tải C123, đại úy phi công thuộc Phi Đoàn 423-425, Không Đoàn Vận Tải, Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất.

Sau năm 1975, đi tù “cải tạo” năm năm.

Năm 1980 ra tù, vượt biển bằng ghe, cùng 18 thanh niên trên ghe giết hải tặc Thái Lan.

Bị giam trong trại tù Thái Lan 1 năm 1 tháng.

Nhờ bà Bùi Tuyết Hồng cứu khỏi trại tù Thái Lan, được tòa án Thái xử trắng án giết người.

Đoàn tụ gia đình tại Mỹ từ 1981.